SÀNG LỌC PHÁT HIỆN SỚM UNG THƯ VÚ
SƯU TẦM
2024-06-10T20:44:38-04:00
2024-06-10T20:44:38-04:00
http://trungtamytebaoloc.vn/khoa-csskss/sang-loc-phat-hien-som-ung-thu-vu-763.html
/themes/default/images/no_image.gif
Trung tâm Y tế Thành phố Bảo Lộc
http://trungtamytebaoloc.vn/assets/images/logo.png
Thứ hai - 10/06/2024 20:44
Ung thư vú đứng đầu trong các bệnh ung thư thường gặp ở nữ giới trên thế giới và tại Việt Nam, việc phát hiện sớm bệnh ở giai đoạn đầu thì khả năng điều trị khỏi bệnh, kéo dài thời gian sống, giảm chi phí điều trị là những vấn đề có ý nghĩa cho mọi gia dình.
Sàng lọc, chẩn đoán sớm ung thư vú
I/ Tổng quan
Ung thư vú đứng đầu trong các bệnh ung thư thường gặp ở nữ giới trên thế giới và tại Việt Nam. Theo tổ chức ghi nhận ung thư thế giới GLOBOCAN 2020, hàng năm, trên thế giới có hơn 2,2 triệu người được chẩn đoán mắc ung thư vú và khoảng người 680.000 người tử vong vì căn bệnh này.
Tại Việt Nam, ung thư vú chiếm 25,8% bệnh ung thư ở nữ giới với hơn 21.555 ca mắc mới và 9.345 ca tử vong. Nếu như tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn rất sớm đạt 98% thì ở giai đoạn cuối tỷ lệ này chỉ còn khoảng 10%. Với sự tiến bộ trong sàng lọc, chẩn đoán, bệnh ung thư vú có thể chẩn đoán sớm và điều trị khỏi.
Sàng lọc UTV cũng giống như sàng lọc nói chung là quá trình áp dụng một biện pháp kỹ thuật để phát hiện những cá thể đang có nguy cơ phát triển thành bệnh, hoặc đã có biểu hiện bệnh tiềm ẩn ở giai đoạn tiền lâm sàng hoặc một bệnh ở thời kỳ sớm trong một cộng đồng mà bệnh UTV chưa biểu hiện những triệu chứng lâm sàng dễ thấy. Nhờ các chương trình sàng lọc phát hiện sớm UTV mà tỷ lệ tử vong do UTV đã giảm đáng kể trong vòng 3-4 thập niên trở lại đây.
II/ Đối tượng nguy cơ
Các yếu tố gia tăng nguy cơ mắc ung thư vú bao gồm:
- Tiền sử gia đình: có mẹ, con gái, chị, em gái bị ung thư vú
- Phụ nữ có đột biến gen BRCA1, BRCA2
- Tuổi cao ≥ 40 tuổi
- Người có tiền sử chiếu xạ vùng ngực
- Phụ nữ hành kinh sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 55 tuổi)
- Phụ nữ mang thai muộn (>30 tuổi), không mang thai, không cho con bú
- Những người mắc bệnh béo phì, hút thuốc lá
- Có tiền sử mắc bệnh ung thư trước đó: vú, buồng trứng, nội mạc tử cung…
III/ Các biện pháp sàng lọc ung thư vú
Các phương pháp sàng lọc ung thư vú bao gồm: Khám lâm sàng; Siêu âm tuyến vú; Chụp X-quang tuyến vú; Chụp cộng hưởng từ tuyến vú và chọc hút tế bào tuyến vú dưới hướng dẫn của siêu âm khi có tổn thương nghi ngờ.
1/ Tự khám vú
Có thể giúp phát hiện các dấu hiệu bất thường, các triệu chứng sớm của bệnh ung thư vú. Phụ nữ có thể tự khám vú của mình khi đứng trước gương hoặc ở tư thế nằm. Với phụ nữ còn kinh nguyệt nên khám vú vào ngày thứ 7 sau chu kỳ kinh (lúc này tuyến vú mềm nhất). Đầu tiên là đứng trước gương quan sát 2 bên tuyến vú xem có đều nhau không, màu sắc da tuyến vú có chỗ nào bất thường hay không, kiểm tra các dấu hiệu bất thường như co kéo da vú, núm vú. Tiếp đó, dùng tay phải kiểm tra vú trái và ngược lại. Dùng 4 ngón tay xoa đều xung quanh ngực xem có khối u cục nào ở tuyến vú hay không, nặn núm vú phát hiện dịch tiết núm vú bất thường, sờ các hạch quanh nách, hạch thượng đòn, hạch cổ.
Phương pháp tự khám vú được khuyến cáo tiến hành hàng tháng vào 1 ngày cố định (với phụ nữ còn kinh là sau khi sạch kinh 7-10 ngày) đối với phụ nữ từ 20 tuổi trở lên. Các bước tiến hành như sau:
1.1. Chuẩn bị: cần cởi bỏ áo, nơi tiến hành tự khám vú có thể ở buồng ngủ là tốt nhất, hoặc có thể ở buồng tắm có đủ ánh sáng, có gương quan sát.
1.2. Quan sát: xuôi tay, quan sát xem các thay đổi ở vú như u cục, dầy lên, lõm da hoặc các thay đổi về màu sắc da.
- Đưa tay ra sau gáy, sau đó quan sát lại
- Chống tay lên hông, làm cử động ngực lên xuống bằng động tác nâng hay hạ vai để quan sát chuyển động của vú
- Nặn nhẹ đầu vú xem có dịch chảy ra không.
1.3. Sờ nắn
- Đưa tay phải ra sau gáy
- Dùng tay trái sờ nắn vú phải, dung 4 ngón tay áp sát vào nhay thành 1 mặt phẳng, ép đều đặn lên các vùng khác nhau của tuyến vú vào thành ngực để cảm nhận, phát hiện các u cục, các đám rắn của tuyến vú.
- Kiểm tra hố nách
- Sau đó làm tương tự với bên trái
a. Làm tại quy trình trên ở tư thế nằm với 1 gối mỏng kê dưới vai
2/ Khám lâm sàng:
Bác sĩ sẽ quan sát hình dạng, kích thước, màu sắc da tuyến vú, núm vú tìm các dấu hiệu bất thường, đồng thời thăm khám, đánh giá mật độ tuyến vú, phát hiện khối u, đánh giá kích thước, mật độ, ranh giới, sự di động của khối u.
Khám lâm sàng (tại cơ sở y tế chuyên khoa)
- Hỏi kỹ về tiền sử, nhất là tiền sử về sinh sản - nội tiết, tiền sử gia đình.
- Đối tượng cần được cởi bỏ áo toàn bộ nửa trên cơ thể.
- Quan sát để phát hiện các bất thường và sự khác biệt giữa 2 vú: đối tượng khám ở tư thế ngồi, hai tay buông xuôi.
+ So sánh về kích thước và hình dạng vú.
+ Tìm xem có các khối lồi ở rìa vú hoặc co kéo da phía trên (do khối u vùng rìa vú gây ra).
Tìm dấu hiệu co kéo da phía trên khối u (có thể do sự xâm nhập trực tiếp của khối u hoặc do xơ hóa). Các khối u ở sâu gây tổn thương các vách xơ (dây chằng Cooper) cũng có thể gây co kéo.
+ Quan sát kỹ da và núm vú xem có phù ở da vú (màu da cam) hay không.
+ Tìm dấu hiệu phù tại chỗ thường gặp chủ yếu ở nửa dưới, vùng quanh quầng vú và phát hiện dễ dàng hơn khi cánh tay giơ cao.
+ Đỏ da là dấu hiệu khác của bệnh nên lưu ý khi quan sát vú, nó có thể là do viêm mô tế báo (cellulitis) hoặc áp-xe vú, đây cũng có thể là dấu hiệu ung thư vú thể viêm.
Khám núm vú bao gồm quan sát sự đồng tâm, sự co kéo và các thay đổi về màu da. Nếu hiện tượng co kéo núm vú mới xuất hiện là dấu hiệu cần hết sức lưu ý trừ khi hiện tượng này xuất hiện ngay khi mới thôi cho con bú. Loét hoặc các eczema của núm vú có thể là các dấu hiện đầu tiên của bệnh Paget.
- Sau khi quan sát ở tư thế tay buông xuôi nên yêu cầu người bệnh giơ tay lên để có thể quan sát nửa dưới của vú. Sau đó để người bệnh chống tay vào hông, tư thế này giúp nổi rõ những vùng bị co kéo một cách kín đáo mà ở tư thế tay buông xuôi khó phát hiện ra.
- Khám người bệnh ở tư thế ngồi thẳng: Khám ở tư thế này giúp phát hiện các tổn thương mà khi khám ở vị trí nằm có thể không rõ (các tổn thương ở phần gần hố nách của vú). Khi khám vú, một tay đỡ nhẹ nhàng ở dưới, dùng bốn ngón tay của tay kia để khám. Nếu dùng hai ngón tay để bóp tuyến vú sẽ có cảm giác có khối u trong vú và đây là lỗi thường gặp của các thầy thuốc không có kinh nghiệm và của các phụ nữ có nỗi ám ảnh về bệnh khi tự khám vú.
Sau khi khám ở tư thế thẳng đứng, người bệnh sẽ được khám ở tư thế nằm, tay bên khám nâng quá đầu. Ở các người bệnh có vú rất lớn có thể phải kê một cái gối nhỏ hoặc một cái khăn gấp bên dưới vai của vú cần khám để nâng tuyến vú lên. Khám vú có thể theo hình đồng tâm hoặc tỏa theo hình nan hoa, phải đảm bảo khám toàn bộ vú. Tay di chuyển lên trên đến xương đòn, phải đảm bảo khám toàn bộ vú. Tay di chuyển lên trên đến xương đòn, xuống dưới đến khe liên sườn thấp, vào giữa đến sát xương ức và sang bên đến đường nách giữa. Khi khám vú một tay cố định, tay kia dùng để khám, áp lực bàn tay rất thay đổi nhưng không nên quá mạnh gây khó chịu cho người bệnh.
Bước tiếp theo là khám hạch vùng. Khám hạch nách và hạch thượng đòn tốt nhất khi người bệnh ở tư thế thẳng. Hạch bên phải được khám bằng tay trái của người thầy thuốc, tay phải của người bệnh gấp và được kê lên, điều này giúp cơ ngực được thả lỏng và tay thầy thuốc có thể dễ dàng đi vào nách. Nách bên trái được khám tương tự. Khi sờ thấy hạch nách nên ghi nhận các đặc điểm về kích thước, số lượng hạch, hạch cứng hay mềm, đau hay không đau, hạch đơn độc hay có nhiều cái, dính nhau hay không, hạch có dính vào tổ chức ở hố nách? Hạch di động hay cố định? Dựa trên các thông tin này thầy thuốc có thể đánh giá các hạch này có nghi ngờ bị tổn thương về mặt lâm sàng hay không. Nhiều phụ nữ có thể sờ thấy hạch nách khi bị xước mang rô (hangnail), các vết trầy da nhỏ hoặc viêm nang lông vùng nách. Nếu các hạch nhỏ (< hoặc = 1cm), mềm, di động (đặc biệt khi có ở cả hai bên) thì hiếm khi có khả năng ác tính. Trái lại, hạch thượng đòn to có thể sờ thầy được là điều không bình thường và nên có các đánh giá sâu hơn.
3/ Cận lâm sàng
- Chụp X-quang tuyến vú (Mammography):
Là một trong những kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn được sử dụng phổ biến trong chẩn đoán bệnh lý tuyến vú. Chụp X quang tuyến vú giúp phát hiện các bất thường hoặc khối u vú ở giai đoạn sớm ngay cả khi chưa sờ thấy. Hình ảnh điển hình hay thấy trên phim X-quang vú là tổn thương vi vôi hóa và các khối.
Siêu âm tuyến vú giúp tăng khả năng phát hiện ung thư vú đặc biệt ở những trường hợp có mô vú đặc. Mục đích xác định vị trí, số lượng, tính chất khối u vú, đánh giá tình trạng di căn hạch nách, hạch thượng đòn. Trong trường hợp nghi ngờ, siêu âm giúp định hướng chọc hút tế bào, sinh thiết u vú, hạch để chẩn đoán bệnh
- Cộng hưởng từ tuyến vú (MRI)
Được chỉ định trong một số trường hợp đặc biệt như: ung thư vú có tính chất gia đình liên quan đến đột biến gen BRCA ½, những người có tuyến vú đặc, các trường hợp nghi ngờ tổn thương ung thư vú đa ổ, những người có hạch nách bất thường, phụ nữ đặt túi ngực…
- Chọc hút tế bào, sinh thiết u dưới hướng dẫn của siêu âm tuyến vú
- Xét nghiệm tế bào học hoặc sinh thiết u vú, hạch thường được thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc X quang định vị. Là xét nghiệm để đánh giá cấu trúc của tổn thương tại tuyến vú, hạch nách. Kết quả mô bệnh học được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định ung thư tuyến vú.
4/ Khuyến cáo về tần suất sàng lọc:
Không phải đối tượng nguy cơ cao
- Phụ nữ từ 20-25 tuổi: Tự khám vú mỗi tháng + nên Khám LS 1-3 năm/ lần
- Phụ nữ từ 25 đến 40 tuổi:
+ Tự khám vú mỗi tháng.
+ Nên khám LS định kỳ ở cơ sở y tế chuyên khoa mỗi năm 1 lần.
Tự khám vú mỗi tháng
+ Khám lâm sàng tuyến vú định kỳ 1 năm/lần bởi bác sĩ chuyên khoa.
+ Chụp X quang vú tầm soát 1 năm/lần.
- Đối với phụ nữ có tuyến vú loại đặc, nhất là thuộc nhóm nguy cơ, nên kết hợp siêu âm vú và/hoặc chụp cộng hưởng từ tuyến vú.
Đối tượng nguy cơ cao
- Tiền sử gia đình bị ung thư vú:
+ Tự khám vú mỗi tháng
+ Khám lâm sàng: 6 tháng- 1 năm/ lần
+ Chụp X-quang tuyến vú 1 năm/ lần: từ tuổi = tuổi của người thân bị ung thư vú – 10 (người trẻ nhất) hoặc sớm hơn (không < 25 tuổi, không > 40 tuổi).
Đối với người có tiền sử xạ trị thành ngực:
+ Tự khám vú mỗi tháng
+ Khám lâm sàng: 6 tháng- 1 năm/ lần
+ Chụp X-quang tuyến vú 1 năm/ lần: bắt đầu từ 8-10 năm sau xạ trị
+ Cân nhắc MRI vú
- Tiền sử quá sản không điển hình:
+ Tự khám vú mỗi tháng
+ Khám lâm sàng: 6 tháng- 1 năm/ lần
+ Chụp X-quang tuyến vú 1 năm/ lần
Sàng lọc, chẩn đoán, tăng phát hiện sớm và điều trị khỏi, giảm chi phí
Tác giả bài viết: SƯU TẦM